Phát biểu trước Quốc hội trong phiên thảo luận tại tại Hội trường vào sáng 2/6, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), ông Vũ Tiến Lộc khẳng định, Hiệp định TPP và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU sẽ giúp kinh tế Việt Nam giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc.
|
“Kỳ họp Quốc hội lần này diễn ra trong một bối cảnh đặc biệt – ông Lộc nhấn mạnh – Đó là , Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa ký kết hiệp định thương mại tự do với các đối tác lớn nhất trên thế giới, gồm Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang đi vào giai đoạn nước rút và Hiệp định Thương mại tư do Việt Nam – EU dự kiến kết thúc đàm phán vào cuối năm nay. Và sự bất ổn trên biển Đông nếu không được ngăn chặn sẽ ảnh hưởng đáng kể đến quan hệ thương mại Việt – Trung”.
Liên quan đến quá trình đàm phán để thực hiện 2 hiệp định thương mại tự do nói trên, ông Lộc đề nghị các thành viên tham gia đàm phán cần có nhiều phương án để đạt được các cam kết khả thi nhất cho nền kinh tế, đặc biệt là phải thận trọng và cứng rắn trong những vấn đề ảnh hưởng lớn tới người lao động, tới nông dân và sản xuất nông nghiệp như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với dược phẩm, hàng nông hóa phẩm.
“Các thành viên tham gia đàm phán phải hết sức trú trọng bảo lưu không gian kinh tế với những chính sách cần thiết để Chính phủ vận dụng thành công trong việc bảo đảm cho doanh nghiệp được hưởng lợi thực chất từ các cam kết”, ông Lộc lưu ý.
Ông Lộc cho rằng, các hiệp định thương mại tự do không chỉ mở ra cơ hội phát triển kinh tế, mà còn là cơ hội để Việt Nam thoát khỏi tình trạng bị phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc.
Sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, dưới góc độ kinh tế, theo ông Lộc, Việt Nam đang đứng trước đòi hỏi mới trong việc duy trì quan hệ thương mại ổn định với Trung Quốc, đồng thời tăng cường các biện pháp hạn chế sự phụ thuộc quá lớn vào thị trường này, tận dụng các cơ hội trong hiệp định thương mại tự do nói trên là cách thức hữu hiệu để đạt được mục tiêu giảm sự phụ thuộc.
Hiện tại, nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam như dệt may đang phải nhập khẩu từ 50% đến 60% nguyên liệu, phụ kiện đầu vào từ Trung Quốc; khoảng 90% hợp đồng EPC của các nhà máy nhiệt điện do nhà thầu Trung Quốc thực hiện do nguồn cung ứng tín dụng và vật tư, nguyên liệu, hàng hóa của Trung Quốc rất dồi dào và tương đối rẻ so với các đối thủ cạnh tranh.
“Với cam kết loại bỏ hoặc ít nhất là giảm thuế quan và các rào cản kỹ thuật trong hiệp định thương mại tự do với các đối tác thương mại hàng đầu thế giới trong thời gian tới, Việt Nam có điều kiện tốt hơn trong nhập khẩu máy móc, thiết bị, dịch vụ, nguyên liệu đầu vào và cả hàng tiêu dùng với giá cả hợp lý hơn và có thể cạnh tranh được với nguồn cung ứng giá rẻ của Trung Quốc từ Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand, Nga, Ucraine… Đây cũng là cơ hội thu hút đầu tư phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, giảm nhập khẩu đầu vào trong một số lĩnh vực công nghiệp trọng điểm”, ông Lộc hy vọng.
Trung Quốc nhập khẩu khoảng 10% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tuy không phải là thị trường lớn nhất, nhưng Trung Quốc là thị trường nhập khẩu rau quả lớn nhất và đang là nơi tiêu thụ một lượng gạo không nhỏ và nhiều nông sản khác của Việt Nam.
“Thị trường 1,4 tỷ dân này có ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của một bộ phận đáng kể nông dân và những người sản xuất nông nghiệp nước ta”, Chủ tịch VCCI bình luận.
“Vẫn biết rằng, giá xuất khẩu sang Trung Quốc rất rẻ mạt, có mặt hàng chỉ bằng 1/10 so với xuất khẩu sang thị trường khác và luôn có những rủi ro rình rập, nhưng chúng ta vẫn phải tiếp tục xuất khẩu sang thị trường này. Bởi hàng rào thuế quan nhập khẩu ở thị trường Âu – Mỹ còn cao và chúng ta chưa có được một nền công nghiệp chế biến phát triển và chưa biết cách nào để vận chuyển hàng nông sản tới khoảng cách xa xôi, bảo quản dài ngày trên chặng đường vận chuyển và chưa đáp ứng được tiêu chuẩn bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm hết sức ngặt nghèo của các khách hàng giàu có và khó tính trên thế giới”, ông Lộc phân tích.
Theo ông Lộc, muốn giảm sự phụ thuộc quá lớn vào Trung Quốc, cần phải đầu tư đủ mức cho chuỗi giá trị nông sản, cụm công nghiệp và thông qua các hiệp định thương mại tự do để tiếp tục đa dạng hóa đầu ra cho sản phẩm, đặc biệt là hàng nông sản đến các thị trường khó tính nhưng đầy tiềm năng của thế giới.
“Đây là nhu cầu sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam mà cho đến nay chúng ta làm chưa tốt. Với bối cảnh hiện nay, chúng ta cần phải tìm ra lối ra cho nền kinh tế để tránh tình trạng lệ thuộc, tránh việc bỏ trứng vào một giỏ như hiện nay”, Chủ tịch VCCI, ông Vũ Tiến Lộc phát biểu.
Nhiều người lo ngại nếu Trung Quốc có những hành động trả đũa ngược đối với Việt Nam trong trường hợp tranh chấp biển Đông tiếp tục gia tăng bằng việc dừng các hoạt động xuất – nhập khẩu. Tuy nhiên, ông Lộc không bày tỏ sự trước sự lo ngại này bởi theo ông, nền kinh tế Việt Nam và Trung Quốc là một khâu, một mắt xích trong nền kinh tế thương mại toàn cầu, nơi mọi doanh nghiệp, mọi nền kinh tế có sự ràng buộc chặt chẽ với nhau.
“Trung Quốc không dễ gì làm được điều này ít nhất dưới góc độ chính thức và quy mô lớn. Chúng ta biết rằng, hoạt động giao thương với Việt Nam đang là nguồn thu chính cho một số tỉnh nghèo bậc nhất Trung Quốc. Việt Nam cũng là thị trường lớn nhất Đông Nam Á của các nhà thầu Trung Quốc. Nhà đầu tư Trung Quốc đang có lợi ích lớn từ các dự án đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp tại nước ta. Tất cả những điều này khiến người ta phải suy nghĩ trước khi quyết định bất kỳ biện pháp trả đũa ngược nào”, ông Lộc nói.
Về phía Việt Nam, theo ông Lộc, dù có muốn mở rộng nguồn cung tới đâu, đa dạng hóa thị trường đầu ra tới mức nào cũng không thể bỏ qua rất nhiều nguồn nguyên liệu phong phú bậc nhất của Trung Quốc. Doanh nghiệp Việt Nam cũng không thể bỏ qua hàng ngàn sản phẩm từ công xưởng lớn thế giới và cũng không thể bỏ qua thị trường đông dân nhất thế giới lại không hề khó tính này.
“Rất nhiều nước trên thế giới tìm cách giao thương với Trung Quốc và Việt Nam càng không phải là ngoại lệ, thậm chí gần Trung Quốc lại là lợi thế để bứt phá, vượt lên nếu chúng ta có được nền kinh tế đủ sức cạnh tranh”, ông Lộc phát biểu.
Kết thúc phần phát biểu, ông Lộc kêu gọi: “Vì lợi ích lâu dài của cả hai bên, chúng ta tiếp tục lên án và kiên quyết đầu tranh yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng chủ quyền lãnh thổ của nước ta, nhưng chúng ta cũng khẳng định rằng, mọi động thái bài xích, kỳ thị, phá hoại hoạt động giao thương, đầu tư giữa hai bên sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài tới lợi ích của cả nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp Việt Nam”.
Theo baodautu